Phú Thọ là tỉnh có tiềm năng, lợi thế mặt nước sông, hồ, đầm rất lớn; trên địa bàn có 3 con sông lớn chảy qua là: sông Thao, sông Đà, sông Lô và nhiều sông nhỏ, ngòi lớn như: sông Bứa, sông Chảy, ngòi Lao, ngòi Giành, ngòi Me; có 432 hồ chứa và 1.158 đập thủy lợi. Tổng diện tích thủy sản 9 tháng đầu năm 2023 ước đạt 10.650 ha trong đó diện tích chuyên nuôi đạt 5.660ha nuôi ruộng 1 vụ và mặt nước lớn đạt 4.900ha.Tổng sản lượng thủy sản 9 tháng đầu năm đạt 32.152,4 tấn đạt 73,6% so với kế hoạch (KH 43.700 tấn). Tổng số lồng nuôi thâm canh trên sông và hồ chứa đạt 1.865 lồng trong đó số lồng nuôi trong hồ chứa 420 lồng bằng 22,5% tổng số lồng nuôi trên địa bàn tỉnh. Với diện tích 5.585 ha diện tích mặt nước hồ chứa và đập thủy lợi trong đó diện tích đang nuôi thủy sản là 2.235 ha chiếm 21% diện tích nuôi trên địa bàn tỉnh, tổng sản lượng nuôi trong hồ chứa hàng năm đạt trên 5.000 tấn chiếm 11,4% tổng sản lượng thủy sản của tỉnh.
Phú Thọ là tỉnh có tiềm năng, lợi thế mặt nước sông, hồ, đầm rất lớn; trên địa bàn có 3 con sông lớn chảy qua là: sông Thao, sông Đà, sông Lô và nhiều sông nhỏ, ngòi lớn như: sông Bứa, sông Chảy, ngòi Lao, ngòi Giành, ngòi Me; có 432 hồ chứa và 1.158 đập thủy lợi. Tổng diện tích thủy sản 9 tháng đầu năm 2023 ước đạt 10.650 ha trong đó diện tích chuyên nuôi đạt 5.660ha nuôi ruộng 1 vụ và mặt nước lớn đạt 4.900ha.Tổng sản lượng thủy sản 9 tháng đầu năm đạt 32.152,4 tấn đạt 73,6% so với kế hoạch (KH 43.700 tấn). Tổng số lồng nuôi thâm canh trên sông và hồ chứa đạt 1.865 lồng trong đó số lồng nuôi trong hồ chứa 420 lồng bằng 22,5% tổng số lồng nuôi trên địa bàn tỉnh. Với diện tích 5.585 ha diện tích mặt nước hồ chứa và đập thủy lợi trong đó diện tích đang nuôi thủy sản là 2.235 ha chiếm 21% diện tích nuôi trên địa bàn tỉnh, tổng sản lượng nuôi trong hồ chứa hàng năm đạt trên 5.000 tấn chiếm 11,4% tổng sản lượng thủy sản của tỉnh.
Nuôi và khai thác thủy sản trong hồ chứa trong những năm qua đã tạo công ăn việc làm, bổ sung thực phẩm giàu đạm, ổn định đời sống kinh tế và tăng thu nhập cho người dân quanh vùng. Hiện nay nghề nuôi cá trong hồ chứa trên địa bàn tỉnh tập chung ở 4 hình thức: (1) Theo hình thức thâm canh đối với nuôi cá lồng đối tượng nuôi là cá trắm cỏ, cá ngạnh, cá nheo mỹ, rô phi, diêu hồng...năng xuất trung bình đạt 2-3 tấn/lồng/108m3; (2) Nuôi theo hình thức bán thâm canh đối với những hồ có diện tích <10 ha đối tượng nuôi là các loài cá truyền thống trắm, chép, trôi, mè ngoài ra bổ sung thêm cá nheo mỹ, cá trắm đen, cá chim trắng, cá nheo...năng suất trung bình đạt từ 3-3,5 tấn/ha, (3) Nuôi theo hình thức quảng canh cải tiến tại các hồ có diện tích từ 10-20ha đối tượng nuôi là các loại cá truyền thống năng suất đạt từ 1,5-2,0 tấn/ha; (4) Nuôi theo hình thức quảng canh với diện tích từ 20 ha trở lên các đối tượng thả chủ yếu là các đối tượng cá truyền thống, các cơ sở được giao khoán hồ thả theo hình thức đánh tỉa thả bù thường xuyên và nguồn giống thả tái tạo và thả phóng sinh, năng suất đạt từ 0,5-0,7 tấn/ha.
Tuy nhiên, trong dài hạn, để hướng đến nghề nuôi cá hồ chứa phát triển bền vững nhất, mang lại nguồn thu ổn định thì vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức đặt ra. Khó khăn nổi bật nhất hiện nay chính là cơ sở hạ tầng còn yếu chưa đồng bộ, cùng với trình độ công nghệ trong nuôi và chế biến sản phẩm thuỷ sản hồ chứa còn lạc hậu dẫn đến năng suất và hiệu quả kinh tế vẫn còn thấp. Cơ quan chức năng chưa có quy hoạch chi tiết về những vùng nuôi lồng trên các hồ chứa lớn và vừa. Số lồng nuôi cho phép theo định mức kinh tế kỹ thuật còn thấp so với khả năng đầu tư và thực tế (tại Thông tư 16/2015/TT-BNNPTNT ban hành quy chuẩn Quốc gia về nuôi lồng bè trong đó nuôi cá lồng bè trong hồ chứa khu vực nước tĩnh chiếm tối đa 0,05% diện tích mặt nước lúc mức nước thấp nhất mà mực nước thấp nhất trong hồ khó xác định có khi gần cạn hồ). Hồ chứa không ưu tiên cho phát triển nghề cá mà ưu tiên phát triển mục đích chính là thuỷ lợi. Để nghề nuôi cá trong hồ chứa phát triển cần có một số định hướng sau: (1) Phát triển nghề nuôi cá hồ chứa nhỏ và vừa, gắn với việc thả cá thường xuyên, quản lý chăm sóc tốt ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa góp phần xoá đói, giảm nghèo và cung cấp thực phẩm cho người dân. (2) Đẩy mạnh việc nuôi cá lồng ở các hồ chứa vừa và lớn với các loài thuỷ đặc sản gắn với vùng miền, những loài có giá trị phục vụ xuất khẩu và du lịch. (3) Chế biến các phụ phẩm thành các loại thực phẩm phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu, chế biến thức ăn cho gia súc, gia cầm… để gia tăng giá trị sản phẩm.
Để nghề nuôi cá trong hồ chứa phát triển bền vững cần thực hiện các giải pháp sau: (1) Tăng cường vận động, khuyến khích các cơ sở nuôi các trong hồ chứa thực hiện đăng ký để cấp phép nuôi trồng thủy sản trong hồ chứa (Hiện nay mới có 33/432 hồ chứa được cấp phép); (2) Thực hiện theo đúng tiến độ Kế hoạch của Uỷ ban nhân dân tỉnh về phát triển cá lồng trong hồ chứa đến năm 2025 là giảm số lồng nuôi trên sông và tăng số lồng nuôi trong hồ, đập tăng lên 600 lồng(Nguyên nhân do tình hình biến đổi khí hậu nuôi cá lồng trên sông gặp rất nhiểu rủi ro về hạn hán, lũ lụt, xả nước các hồ thủy điện...); (3) Đẩy mạnh tuyên truyền nhân rộng mô hình nuôi cá trên hồ chứa: Tăng cường công tác đào tạo, tâp huấn, hội thảo kỹ thuật nâng cao kiến thức cho người dân về đầu tư thâm canh, phòng trị dịch bệnh cho cá nuôi trong hồ chứa; các quy định pháp luật về nuôi cá và cá lồng trong hồ chứa… Xây dựng mô hình khảo nghiệm, thử nghiệm các đối tượng có giá trị kinh tế cao để tổng kết đánh giá, nhân rộng; (4) Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển nuôi trên hồ chứa: Tham mưu, xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích các Doanh nghiệp, Hợp tác xã, hộ gia đình đầu tư nuôi cá lồng trên các hồ chứa có dung tích từ 0,5 triệu m3 nước trở lên. Rà soát, đánh giá hiệu quả giao khoán các hồ chứa; xây dựng cơ chế điều chỉnh kéo dài thời gian giao khoán, tổ chức đấu thầu công khai để thu hút các tổ chức, cá nhân có tiềm lực mạnh dạn đầu tư phát triển nuôi cá lồng tại các hồ, đập lớn; (5) Xúc tiến thương mại: Thực hiện tốt công tác dự báo, định hướng tiếp cận thị trường; làm tốt công tác quảng bá, giới thiệu, kết nối thị trường tiêu thụ cho các cơ sở nuôi cá với các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ để tạo điều kiện thuận lợi cho người sản xuất tiêu thụ sản phẩm. Xây dựng mạng lưới cửa hàng tiêu thụ sản phẩm tại chợ trung tâm các huyện, thành, thị; các khu du lịch, khu đô thị, khu công nghiệp; (6) Công tác quản lý Nhà nước: Chỉ đạo phát triển nuôi cá trên hồ chứa theo hướng bền vững, có kiểm soát. Thường xuyên theo dõi diễn biến mực nước của hồ, đập để điều chỉnh kế hoạch phát triển lồng nuôi cho phù hợp. Tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý giống, vật tư dùng trong nuôi thuỷ sản trên địa bàn; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm. Thực hiện tốt công tác quan trắc cảnh báo môi trường, dịch bệnh thủy sản; nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ thú y thủy sản, chủ động công tác phòng trị dịch bệnh, phòng chống thiên tai đảm bảo an toàn sản xuất.
Ảnh bài Hiện trạng và GP...jpg
Bài viêt Hiện trạng và giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản trân địa bàn tỉnh Phú Thọ.doc