Để kịp thời, hạn chế và giảm thiểu tác động của thời tiết đến hoạt động nuôi trồng thủy sản trên địa bàn, hiện nay các địa phương đang tích cực thực hiện các giải pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả trong sản xuất thủy sản trên địa bàn tỉnh.
Để kịp thời, hạn chế và giảm thiểu tác động của thời tiết đến hoạt động nuôi trồng thủy sản trên địa bàn, hiện nay các địa phương đang tích cực thực hiện các giải pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả trong sản xuất thủy sản trên địa bàn tỉnh.
Hết tháng 01 năm 2021, diện tích nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh ước đạt 10 nghìn ha, duy trì ổn định so với cùng kỳ năm trước, tổng sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 3.461,6 tấn, tăng 4,5% (+149,3 tấn). Theo nhận định thời tiết thủy văn của trung tâm khí tượng thủy văn quốc gia khu vực Bắc Bộ, nhiệt độ trung bình trong tháng 3/2021 phổ biến xấp xỉ TBNN cùng thời kỳ; Nắng nóng có xu hướng xuất hiện tương đương so với TBNN nhưng không gay gắt và kéo dài như năm 2020. Nguồn nước từ tháng 3-8/2021 trên lưu vực sông Thao, hạ lưu sông Lô giảm từ 20-30%. Nhiệt độ không khí sẽ cao hơn so với trung bình nhiều năm từ 1-20C, đặc biệt giai đoạn từ tháng 5-7 là giai đoạn thời tiết biến động thất thường, nắng nóng xen kẽ mưa lớn làm cho các yếu tố môi trường trong nước như: nhiệt độ, pH, Oxy hòa tan... dao động lớn trong ngày làm giảm sức khỏe và khả năng chống lại dịch bệnh của thủy sản nuôi.
Mặc dù ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, tuy nhiên ngay từ đầu năm 2021, để nâng cao hiệu quả trong nuôi trồng thủy sản, hạn chế thấp nhất rủi ro xảy ra đảm bảo an toàn trong sản xuất, Chi cục Thủy sản và các huyện, thành, thị thường xuyên bám sát cơ sở, chủ động nắm bắt tiến độ sản xuất, tình hình thu hoạch, xử lý ao nuôi sau thu hoạch, chuẩn bị con giống và công tác phòng chống dịch bệnh tại các khu vực nuôi thủy sản nhất là tại các vùng ương nuôi và nuôi thủy sản tập trung kịp thời hướng dẫn người nuôi thực hiện tốt cơ cấu, thời vụ nuôi năm 2021, quy trình, kỹ thuật nuôi an toàn, công tác quan trắc, cảnh báo môi trường...
Hiện nay thời tiết đang thuận lợi cho hoạt động sản xuất, ương nuôi và xuống giống của bà con. Trong đó loại hình nuôi thâm canh người nuôi cần chú trọng đến cơ cấu, thời vụ nuôi. Đối với nuôi cá lồng thâm canh: lựa chọn đối tượng nuôi có giá trị: cá Rô phi, Diêu hồng, Trắm cỏ, cá Lăng, Trắm đen, cá Bỗng, cá Chiên; Kích cỡ giống thả: Cá rô phi, Diêu hồng ≥ 8 cm; cá Trắm cỏ, Trắm đen ≥ 20 cm; Cá Lăng, cá Nheo ≥ 12; cá Bỗng, cá Chiên,… ≥ 15 cm. Mật nuôi trên Sông: cá Rô phi, Diêu hồng 40-50 con/m3; cá Lăng, Nheo 20-30 con/m3; cá Trắm cỏ, Trắm đen 5-10 con/m3; cá Bỗng, Chiên 5-10 con/m3; mật độ trên hồ chứa: cá Rô phi, Diêu hồng 20-30con/m3; cá Lăng, Nheo 10-20 con/m3; cá Trắm cỏ, Trắm đen, Bỗng, Chiên 3-5 con/m3. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất thủy sản khuyến cáo người nuôi có thể thả với mật độ cao hơn, kích cỡ giống thả lớn hơn áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để rút ngắn thời gian nuôi và nâng cao năng suất, hiệu quả trên một đơn vị diện tích. Thời gian xuống giống: Tập trung trong các tháng 3-5, tháng 9-10 dương lịch; Căn cứ thị trường tiêu thụ và kế hoạch phân lớp sản phẩm, người dân có thể xuống giống sớm hơn hoặc muộn hơn. Đối với nuôi cá lồng trên sông Đà và sông Lô: Để chủ động phòng tránh, giảm thiểu thiệt hại cho người nuôi cá lồng do hoạt động xả lũ của hồ thủy điện Hòa Bình hoặc do mức nước cạn, chuyển đổi dòng chảy cần tăng cơ cấu các đối tượng nuôi chịu được nước đục, nước cạn, có sức chống chịu cao như: Diêu hồng, Chép lai V1, Trắm cỏ...Đối với các loại cá da trơn, cá có sức chống chịu kém thì nên thả giống cỡ lớn để kịp thu hoạch trước mùa mưa lũ. Trong thời gian nước cạn, mật độ nuôi cá trong lồng trên sông có thể nuôi thưa hơn so với mùa nước đầy cần tăng cường sục khí và tạo oxy cho cá. Đối với nuôi thâm canh trong ao: Đối tượng giống nuôi: cá Rô phi, Diêu hồng, Trắm cỏ, Trắm đen, Nheo, Trê đồng, Chạch đồng, tôm càng xanh…; Kích cỡ giống thả: cá Rô phi, Diêu hồng, Trê đồng, Chạch ≥ 6 cm; cá Trắm, Trắm đen ≥ 25cm, tôm càng xanh ≥ 5 cm/con. Mật độ thả: cá Rô phi, Diêu hồng ≥ 2 con/m2; Trắm cỏ, Trắm đen ≥ 1 con/m2, cá Trê đồng, cá Chạch ≥ 10 con/m2, tôm càng xanh 5-10 con/ m2. Thời gian xuống giống: cá rô Phi, Diêu hồng, Trắm cỏ, Trắm đen từ tháng 3-5 dương lịch; cá Trê đồng, Chạch, tôm càng xanh từ tháng 3-7 dương lịch.
Trong quá trình nuôi bà con cần thường xuyên duy trì mực nước trong ao nuôi từ 1,5-2m, kiểm tra, điều chỉnh và duy trì các yếu tố môi trường nằm trong khoảng thích hợp theo quy định và theo hướng dẫn của cán bộ chuyên môn. Quản lý chặt chẽ sự phát triển của tảo, nhất là trong thời gian nắng nóng. Khi màu nước xanh đậm có thể dùng các biện pháp phù hợp để diệt tảo. Chủ động tạo oxy cho ao nuôi bằng máy quạt nước, máy sục khí hoặc dùng máy bơm. Sử dụng các loại thuốc, hóa chất, chế phẩm sinh học để duy trì chất lượng nước và quản lý dịch bệnh: Iodine, BKC, Men vi sinh, Vitamin, khoáng chất….Chủ động tăng cường đầu tư để thu hoạch thủy sản nuôi đạt kích thước thương phẩm ngay sau khi thiếu nước, hạn hán xảy ra hoặc trước mùa mưa lũ để giảm thiểu thiệt hại. Bên cạnh việc thực hiện tốt công tác quản lý các yếu tố kỹ thuật, thời vụ thì việc áp dụng các tiến bộ khoa học cũng rất quan trọng giúp người nuôi năng cao giá trị và phát triển thủy sản bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu như: Công nghệ nuôi thủy sản an toàn (Gap), công nghệ tuần hoàn, công nghệ nuôi cá “sông trong ao”…
Quy trình nuôi tôm, cá thâm canh ít thay nước có thể áp dụng hiệu quả trên địa bàn các địa phương trong những năm qua, trong chu kỳ nuôi thì 1-2 tháng đầu tiên không thay nước, chỉ cần bổ sung lượng nước cho ao nuôi do bốc hơi và thẩm thấu. Các tháng tiếp theo chỉ cần thay nước khi thật sự cần thiết để quản lý chất lượng nước giúp cho cá, tôm nuôi sinh trưởng và phát triển tốt hơn. Trong quá trình nuôi tôm, cá sử dụng các chế phẩm sinh học để quản lý chất lượng nước, người nuôi có thể dùng kết hợp chế phẩm sinh học xử lý đáy và xử lý môi trường nước ao nuôi.

Lãnh đạo Chi cục Thủy sản - Kiểm tra mô hình sử dụng chế phẩm và máy quạt nước
|